Theo một phân tích được công bố hôm thứ Năm (29/2) trên tạp chí The Lancet, hơn 1 tỷ t.rẻ e.m, thanh thiếu niên và người lớn trên khắp thế giới đang sống chung với bệnh béo phì, khiến đây trở thành dạng bệnh về dinh dưỡng phổ biến nhất ở nhiều quốc gia.
Béo phì – một “đại dịch” của thế giới
Trong cuộc họp báo hôm thứ Năm (29/2), Tiến sĩ Majid Ezzati, tác giả chính của phân tích và giáo sư tại Cao đẳng Hoàng gia London (Vương quốc Anh), cho biết số liệu thống kê đáng kinh ngạc này đạt được sớm hơn dự đoán, phần lớn là do sự chuyển đổi nhanh chóng của tình trạng dinh dưỡng từ thiếu cân sang béo phì ở các nước thu nhập thấp và trung bình.
Theo ước tính trước đây của Liên đoàn Bệnh béo phì Thế giới (WOF), dự kiến có 1 tỷ người mắc bệnh béo phì vào năm 2030, nhưng Tiến sĩ Ezzati cho biết con số đó đã bị vượt qua vào năm 2022. “Chúng tôi thực sự ngạc nhiên trước tốc độ này”, ông nói.
Một phân tích mới cho thấy tỷ lệ béo phì ở t.rẻ e.m và thanh thiếu niên trên toàn thế giới tăng gấp 4 lần, trong khi tỷ lệ béo phì ở người lớn tăng hơn gấp đôi từ năm 1990 đến năm 2022. Ảnh: Getty Images
Phân tích được thực hiện bởi hơn 1.500 nhà nghiên cứu từ Tổ chức Hợp tác về Yếu tố rủi ro Bệnh không truyền nhiễm và Tổ chức Y tế Thế giới, đã phân tích số đo chiều cao và cân nặng của hơn 220 triệu người từ hơn 190 quốc gia.
Phân tích tập trung vào tỷ lệ thiếu cân và béo phì, cả hai dạng bệnh dinh dưỡng có hại cho sức khỏe. Người trưởng thành được phân loại là béo phì nếu chỉ số khối cơ thể (BMI) lớn hơn hoặc bằng 30 và được phân loại là thiếu cân nếu chỉ số BMI dưới 18,5. Theo nghiên cứu, t.rẻ e.m và thanh thiếu niên được xác định là béo phì hoặc thiếu cân dựa trên tiêu chí về độ t.uổi và giới tính theo độ t.uổi.
Tại cuộc họp báo, Tiến sĩ Francesco Branca, Giám đốc Ban Dinh dưỡng và An toàn Thực phẩm của WHO, cho biết: “Suy dinh dưỡng và béo phì là hai mặt của cùng một vấn đề, đó là thiếu khả năng tiếp cận chế độ ăn uống lành mạnh”.
Phân tích ước tính rằng gần 880 triệu người lớn và 159 triệu t.rẻ e.m mắc bệnh béo phì vào năm 2022. Tỷ lệ béo phì ở t.rẻ e.m và thanh thiếu niên trên toàn thế giới đã tăng gấp 4 lần từ năm 1990 đến năm 2022, trong khi tỷ lệ béo phì ở người lớn tăng hơn gấp đôi.
“Điều rất đáng lo ngại là ‘đại dịch’ béo phì ở người lớn từng xảy ra ở hầu hết các nơi trên thế giới vào năm 1990 giờ đây lại ảnh hưởng đến t.rẻ e.m và thanh thiếu niên trong độ t.uổi đi học”, ông Ezzati nhấn mạnh.
Trong khi tỷ lệ béo phì tăng lên thì số người bị ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu cân lại giảm ở hầu hết các quốc gia. Theo phân tích, tỷ lệ béo phì hiện cao hơn tỷ lệ thiếu cân ở 2/3 số quốc gia trên thế giới.
Quá trình chuyển đổi này thể hiện rõ nhất ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, đặc biệt là ở vùng Caribe, Trung Đông và Bắc Phi. Theo phân tích, những quốc gia này hiện có tỷ lệ béo phì cao hơn so với nhiều nước công nghiệp phát triển giàu có.
“Trước đây, chúng ta từng nghĩ béo phì là vấn đề của người giàu. Nhưng giờ đây béo phì là một vấn đề của thế giới”, tiến sĩ Branca nhận định.
Ông Ezzati cho biết các nhà nghiên cứu rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng không có quốc gia công nghiệp giàu có nào – trừ Mỹ – nằm nhóm đầu danh sách các quốc gia có tỷ lệ béo phì cao nhất vào năm 2022. Ông cho rằng đó là một sự thay đổi lớn so với năm 2017, khi WHO thực hiện một phân tích béo phì toàn cầu tương tự cho thấy Mỹ, Canada, Úc, New Zealand và Vương quốc Anh nằm trong nhóm hàng đầu về tỷ lệ béo phì.
Các chính sách ngăn ngừa béo phì
Theo tiến sĩ Branca, quá trình chuyển đổi béo phì này là kết quả của việc tái cơ cấu nhanh chóng các hệ thống thực phẩm trên toàn thế giới mà không bị chi phối bởi chính sách công. Theo đó, các hành động chính sách liên quan đến thực phẩm và môi trường chưa đủ quyết liệt.
Ông cho biết, béo phì và thiếu cân cùng tồn tại ở nhiều quốc gia và phải được giải quyết song song thông qua các biện pháp như khuyến khích và hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ, đ.ánh thuế đồ uống có đường, quy định tiếp thị thực phẩm hướng tới t.rẻ e.m và cung cấp thực phẩm bổ dưỡng trong các tổ chức công như trường học. Ông nói thêm rằng cải cách nông nghiệp, thiết kế đô thị và đầu tư vào chăm sóc sức khỏe ban đầu có thể hỗ trợ những chính sách đó.
Trong một thông cáo báo chí, ông Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng giám đốc WHO, cho biết: “Việc quay trở lại đúng hướng để đạt được các mục tiêu toàn cầu về hạn chế béo phì sẽ cần nỗ lực của các chính phủ và cộng đồng, được hỗ trợ bởi các chính sách dựa trên bằng chứng từ WHO và các cơ quan y tế công cộng quốc gia”.
“Điều quan trọng là nó đòi hỏi sự hợp tác của khu vực tư nhân, họ phải chịu trách nhiệm về tác động sức khỏe do sản phẩm của mình gây ra”, ông nói thêm.
Theo ông Branca, hơn 3 tỷ người trên thế giới hiện không đủ khả năng chi trả cho một chế độ ăn uống lành mạnh.
Để hỗ trợ các chính sách này, WHO đã hợp tác với các cơ quan khác như Quỹ khẩn cấp t.rẻ e.m quốc tế của Liên hợp quốc để đưa ra các khuôn khổ như Kế hoạch hành động toàn cầu về tình trạng suy dinh dưỡng ở t.rẻ e.m và Kế hoạch tăng tốc ngăn chặn béo phì.
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh những thay đổi chính sách trên toàn thế giới đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Pháp, quốc gia có tỷ lệ béo phì ở mức ổn định trong phân tích, đã thực hiện một kế hoạch quốc gia có tên là Chương trình Dinh dưỡng Quốc gia Santé nhằm đặt ra các mục tiêu cho chính sách dinh dưỡng ở cấp độ ngành, người tiêu dùng và nghiên cứu.
Ngoài ra, các quốc gia ở Nam Mỹ đã bắt đầu thực hiện dán nhãn dinh dưỡng trước bao bì, trong đó có cảnh báo rõ ràng về hàm lượng chất béo, đường và muối. Tiến sĩ Branca cho biết Mexico đã dẫn đầu về việc đ.ánh thuế đồ uống có đường, và ở Chile, thực phẩm chế biến sẵn không được bán cho t.rẻ e.m.
“Các biện pháp can thiệp của cộng đồng lồng ghép việc thúc đẩy chế độ ăn uống lành mạnh và hoạt động thể chất đã đặc biệt hiệu quả”, ông Branca nhận xét.
‘Bệnh X’ được WHO đ.ánh giá nguy hiểm gấp 20 lần Covid-19 là gì?
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra khái niệm về bệnh X, căn bệnh do một loại virus giả định gây ra, chưa biết có tồn tại hay không gây ra.
Các nhà lãnh đạo thế giới đã tập trung tại cuộc họp thường niên của Diễn đàn Kinh tế thế giới ở Davos (Thụy Sĩ) giữa tháng 1 để thảo luận về bệnh X do loại virus giả định được cho là nguy hiểm hơn 20 lần so với Covid-19.
Mặc dù chưa biết loại virus như vậy hiện có tồn tại hay không nhưng giới chuyên gia hy vọng có thể chủ động đưa ra kế hoạch hành động để chống lại loại virus đó và chuẩn bị hệ thống y tế nếu bệnh X nổi lên như một đại dịch. Một chuyên gia nói với CBS News rằng khả năng đó có thể xảy ra sớm hơn chúng ta nghĩ.
Tiến sĩ Amesh Adalja, thuộc Trung tâm An ninh Y tế Johns Hopkins (Mỹ), cho biết: “Có những chủng virus với tỷ lệ t.ử v.ong rất cao có thể phát triển khả năng lây truyền hiệu quả từ người sang người”.
Tổng Giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus. Ảnh: Britannica
Bệnh X là gì?
Năm 2022, WHO đã tập hợp 300 nhà khoa học để xem xét 25 họ virus và vi khuẩn nhằm lập ra danh sách các mầm bệnh mà họ tin rằng có khả năng tàn phá và cần được nghiên cứu thêm. Nằm trong danh sách đó là bệnh X được tổ chức này công nhận lần đầu tiên vào năm 2018.
WHO đ.ánh giá sự quan tâm tới virus gây bệnh X “thể hiện sự hiểu biết rằng một đại dịch quốc tế nghiêm trọng có thể do một mầm bệnh (không xác định) gây ra”. Tổng Giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus cho biết Covid-19 có thể là “bệnh X” đầu tiên. Các nhà khoa học đang tích cực học hỏi từ kinh nghiệm đó.
Theo Tiến sĩ Adalja, bệnh X có thể do một loại virus đường hô hấp đã lây lan ở các loài động vật và chưa có khả năng truyền sang người. “Con vật nhiễm bệnh có thể là loài dơi như Covid-19, các loài chim như cúm gia cầm hoặc một số loại động vật khác, chẳng hạn như lợn”, vị tiến sĩ nói. Khi con người và động vật tiếp xúc, các loài virus có thể lan truyền.
Tính toán của các chuyên gia
Theo WHO, nếu chúng ta không chuẩn bị, rất có thể một căn bệnh ở quy mô đó sẽ gây ra thiệt hại thậm chí còn lớn hơn những gì chúng ta đã trải qua với Covid-19, căn bệnh đã cướp đi sinh mạng hơn 7 triệu người.
Tiến sĩ Adalja cũng đề cập đến đại dịch cúm năm 1918 đã g.iết c.hết khoảng 50 triệu người trên toàn cầu. “Nếu chúng ta ứng phó quá kém với một thứ như Covid-19, bạn có thể tưởng tượng mọi chuyện sẽ tệ đến mức nào với một sự kiện cấp độ như đại dịch cúm năm 1918”.
Đó là lý do các chuyên gia khắp nơi trên thế giới đang nghiên cứu một kế hoạch mạnh mẽ và hiệu quả để chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Ông Ghebreyesus nhận định hệ thống cảnh báo sớm và kế hoạch về cơ sở hạ tầng y tế có thể giúp ích trong một kịch bản tương lai.
Tiến sĩ Adalja cho biết một bài học quan trọng khác từ đại dịch Covid-19 là tầm quan trọng của tính minh bạch.
Ông Ghebreyesus chia sẻ WHO hợp tác với các tổ chức toàn cầu khác đã đưa ra các sáng kiến để chuẩn bị cho đại dịch tiếp theo. Những nỗ lực này bao gồm quỹ đại dịch để giúp các quốc gia có nguồn lực, trung tâm chuyển giao công nghệ vắc xin mRNA để đảm bảo công bằng về vắc xin cho các quốc gia có thu nhập thấp và trung tâm thông tin về dịch bệnh nhằm cải thiện hoạt động giám sát hợp tác giữa các quốc gia.